Bài thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ Việt Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa xôi. Tôi viết rất nhanh, nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều. Những dòng chữ, những câu thơ đúng ra là từ mơ ước, thao thức đã ấp ủ trong tâm thức tôi từ lâu lắm, chỉ chờ dịp để tuôn ra. Tôi không làm thơ, tôi chỉ chép như có một người nào đang nhắc nhở bên tai mình. Nguyên văn bài thơ như thế này:
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người Tiếng ai như tiếng lá thu rơi Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê Mười năm tóc mẹ màu tang trắng Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn Bên đời gió tạt với mưa tuôn Con đi góp lá nghìn phương lại Đốt lửa cho đời tan khói sương
Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao Mẹ xa xôi quá làm sao vói Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ Đau thương con viết vào trong lá Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi Ví mà tôi đổi thời gian được Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Bà Lê Đỗ Thị Ninh là học trò của thi sĩ Hữu Loan, nhỏ hơn thầy 16 tuổi. Ngày xưa ấy, bà Ninh là con gái của Thanh tra canh nông xứ Đông Dương. Hữu Loan quen biết bà Ninh khi ông còn học college Đào Duy Từ (Thanh Hóa). Cha của bà Đỗ Thị Ninh ngưỡng mộ danh tiếng của cậu học trò Hữu Loan đã vời cậu vào dạy học cho các con.Sau khi tốt nghiệp thành chung, Hữu Loan ra Hà Nội học tú tài. Trong một đợt phát động Tuần lễ vàng, Hữu Loan diễn thuyết trước đám đông. Nào ngờ, gặp lại cô học trò ngày xưa, nay đã trở thành thiếu nữ "đẹp một vẻ trong trắng, giản dị". Họ nhanh chóng thành thân với nhau vào năm 1948. Cưới xong, Hữu Loan phải tức tốc hành quân theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến sĩ.Mấy tháng sau ngày cưới, ông nhận được tin vợ chết đuối. Nỗi đau đớn khôn nguôi đã kết thành thơ Màu tím hoa sim, khóc người vợ trẻ đẹp, sắt son nhưng vắn số.
Nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân Nàng cười xinh xinh Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh Mấy người đi trở lại Lỡ khi mình không về Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới Thành bình hương tàn lạnh vây quanh Tóc nàng xanh xanh Ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối Không được nghe nhau nói Không được nhìn nhau một lần Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím Áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa...
Một chiều rừng mưa Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc Biết tin em gái mất Trước tin em lấy chồng; Gió sớm thu về rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên ngở ngàng nhìn ảnh chị Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí. Chiều hành quân Qua những đồi sim những đồi sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu... Thi sĩ Hữu Loan
ĐÂY THÔN VỸ DẠ
Sao anh không về chơi thôn Vỹ Nhìn nắng hàng cao nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn hiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà Hàn Mặc Tử
Hai câu Thơ của Thanh Tài thật dí dõm dễ thương .
Trả lờiXóaNM