Thứ Tư, 23 tháng 12, 2009

TUỔI NGÀ

Một mai kia đến tuổi ngà
Làm con sáo sậu trông nhà trống không
Vì cơn mưa ướt mái đông
Vì cơn mưa tạnh ngồi trông tình chờ
Có người kinh khổ dệt thơ
Mà phân vân khó thờ ơ mở lời
Văn chương mượn chữ nhiều nơi
Vắn dài mơ mộng tình ơi hỡi tình
Lòng thường trầm nỗi diệt sinh
Cho xin hứa hẹn.,một đời làm đau
Mây mù cuối núi tan mau
Cây diêu bông đã ra màu thủy chung
Ngô đồng rơi chiếc cuối cùng
Cho thu giữ lại chân dung lá nằm
In trên mặt đất vàng căm
Chiếc khô chiếc uá chiếc trăm năm..mờ
Vậy thôi trời mở vần thơ
Và diêu bông ...đã.. thành tơ..kén nằm.

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2009

THA HƯƠNG NHỚ QUÊ NHÀ

Đêm mưa mộng thấy quê nhà
Nắng vờn sân dưới giàn hoa giấy hồng
Nằm nghe lá động bên song
Tiếng chim gọi bạn, tiếng lòng nhẹ tênh

Thân lười yêu mộng tuổi xanh
Trưa hè nắng biếc, đầu cành nắng tươi
Thời gian nhẹ áng mây trôi
Mộng phiêu du gởi cây đồi sóng sông

Đêm nay gió giật mưa giông
Tha hương mộng gởi nghìn trùng gió khơi .


B.N. Tuấn

Thứ Hai, 7 tháng 12, 2009

VÙI LAU LÁCH

Chiều hôm xưa ngắt lạnh,về không
Nắng ở trên mây rụng cuối lòng
Nhà ai tiếng pháo mơ hồ vắng
Em từ âm vọng buổi tàn đông

Cuối một năm hay cuối một đời
Cuối thời thanh trẻ biết rong chơi
Từ đây nước đã khô thành cát
Hết một con sông mạch máu người

Bóng lạ gương soi buồn mạch thấm
Sầu cho tóc rũ mắt lệ khô
Nắng biệt bên trời mây chợt trắng
Lòng đêm cao với mộng vô thường

Khói sóng chưa tan đường mịt gió
Chiều đi quanh một vẻ thờ ơ
Bóng đuổi tinh vân đài mấy phía
Đời khôn nguôi ngậm chút ơ hờ

Rồi sẽ không tìm ra bóng đâu
Ngày xanh ôm mặt nhật qua cầu
Quỳnh hương một đóa vùi lau lách
Cồn xa cát lạnh biết nằm đau

Hoàng Xuân Sơn

Thứ Tư, 18 tháng 11, 2009

CẢM HOÀI

Thế sự mang mang tuổi trót già
Vô cùng thiên địa vỗ bầu ca
Thời đến kẻ câu cùng đồ tể
Vận đi hảo hớn cũng buông qua
Hết lòng vì chúa xoay trục đất
Rửa binh trì kéo ngược sông ba
Thù nước chửa xong đầu đã bạc
Khỏa gươm mài kiếm dưới trăng ngà .


Thiên Thanh

Thứ Ba, 17 tháng 11, 2009

CẢM HOÀI ĐẶNG DUNG


Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.

TƯỞNG NHỚ

Văng vẳng tiếng kèn vọng đó đây.
Ấy lời truy điệu gọi chân mây
Xác người đồng đội nằm trong đất
Hồn thể anh hùng tụ ngọn cây
Nợ nước thân trai lòng dâng hiến!
Tình nhà nợ nước chẳng phải vay!
Ơn người chiến sĩ luôn ghi nhớ
Đốt nén hương lòng gởi gió bay.

Thứ Ba, 10 tháng 11, 2009

LỜI TÂM SỰ CUỐI NĂM

Không ai bắt ta làm thơ tranh đấu
Không ai ngăn ta về nước thăm quê
Nhưng vì thấy đảng độc tài, khát máu
Bán nước buôn dân, ta quyết không về
Đời Tị Nạn, ta chưa hề phản bội
Bao nhiêu năm thơ rải khắp hoàn cầu
Thơ điểm mặt bạo quyền, thơ kết tội
Tội xô loài người xuống kiếp ngựa, trâu !
Thơ ta gọi người ngủ mê tỉnh dậy
Gọi anh em sát cánh đứng cùng nhau
Thơ thật lắm, thơ nói điều ta thấy
Để kẻ ngây thơ tránh cảnh hận sầu !
Để cháu con ta đề cao cảnh giác
Không bị gạt lừa như đã, cha ông
Để chế độ bạo tàn kia, cộng sản
Chẳng sống còn, tàn phá mãi non sông
Thơ ta thế, nên chỉ người yêu nước
Yêu công bằng là thương mến thơ thôi
Còn những kẻ lòng gian tà, phản quốc
Đọc thơ ta thì căm hận từng lời ...
Chúng chặt thơ ra làm năm, làm bảy
Xuyên tạc, bất lương, thực hiện ý đồ
Nhưng chúng đã lầm, mọi người đều thấy
Thơ kiên cường, từng ý sáng trong thơ
Dù hiểm độc, chúng tung tin thất thiệt
Để gian manh, lừa dư luận, hại người
Chúng mong mỏi ta nản lòng, ngưng viết
Hoặc muốn thơ ta không sống trên đời
Nhưng chúng sẽ chẳng bao giờ toại nguyện
Vì thơ ta mang khát vọng toàn dân
Là tiếng thét đòi đời cho xứ Việt
Là lưỡi gươm chính khí diệt vô thần !
Giặc còn đó thì thơ ta còn đó
Ta chết đi, ngươì khác tiếp theo thôi ...
Khi tổ quốc còn đau trong ngục đo?
Thì đừng mong thơ lặng tiếng, im lời !!!
Xin cảm tạ những trái tim công chính
Không ngại đòn thù mà đỡ nâng ta
Hẹn ngày rất gần, quê mình lúa chín
Cờ Vàng bay ngạo nghễ khắp sơn hà ...

Trân trọng
Ngô Minh Hằng


HƯƠNG SÀIGÒN

Ta, một kẻ đơn thương thề chiến đấu
Đến hơi tàn mong lấy lại quê hương
Nếu đảng cộng còn toàn quyền thống tri.
Dù nhớ quê, ta cũng quyết không về
Ta, một kẻ kiên trì không phản bội
Phải xa quê đến nửa qủa địa cầu
Vẫn không quên giặc thù gây bao tội
Quyết không tha mặt ngựa với đầu trâu
Ta kêu gọi lương tâm người thức dậy
Cùng chung vai sát cánh nắm tay nhau
Cùng tiến lên con đường ta đã thấy
Cứu quê hương, phá hủy một thành sầu!
Ta nhắc nhở muôn người nên cảnh giác
Kẻ thù ta từng lưà dối cha ông
Đưa Việt Nam đi vào đường phá sản
Chúng buôn người và bán cả non sông!
Ta tha thiết gọi mời người yêu nước
Vì quê cha đất tổ Việt Nam thôi
Diệt quân thù, và cứu nguy Tổ Quốc
Cất tiếng cao tố cộng chẳng tiếc lời!
Ta xin người đừng chia năm xẻ bảy
Hãy cùng ta đoàn kết dựng cơ đồ
Để thế giới, năm châu đều nhìn thấy
Chí Lạc Hồng trong sáng tựa trăng thơ
Ta khuyên người đừng so đo hơn thiệt
Thương yêu nhau là sức mạnh con người
Thương đồng bào, chúng ta cùng nhau viết
Những bài thơ chống cộng để nghìn đời
Giáng Sinh đến ta thành tâm khẩn nguyện
Ơn Thanh Bình cho tất cả muôn dân
Ơn cứu rỗi cho người dân Nước Việt
Xóa âm u trong tâm khảm kẻ vô thần !
Xin soi sáng con người cộng sản đó
Biết quay về một nẻo chánh mà thôi
Hết bạo tàn, xé toang màu cờ đỏ
Cùng muôn dân thờ phượng Đấng Ngôi Lời
Ta khẩn thiết gọi mời người công chính
Hãy nhìn về nỗi khổ của dân ta
Cùng tiến lên vì cơ trời đã chín
Vung gươm thiêng diệt giặc cứu sơn hà!

Hương Saigòn (Trần Thu Hương)
kính họa

Thứ Năm, 5 tháng 11, 2009

ĐƯỜNG THI LỠ VẬN

Anh hùng bạt mạng đã bạc đầu
Bao năm chinh chiến giữa rừng sâu!
Gĩa từ vũ khí lưng mang số
Bỏ chiếc giày sô dạ đeo sầu!
Đất khách mang mang hồn lữ thứ
Quê người lạnh lẽo suốt đêm thâu
Ba mươi năm cũ còn in dấu

Hồ trường cảm khái rượu về đâu?

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch!
Ẩm hận song tuyền đối nguyệt ma!
Nước non vẫn nước non nhà
Bao năm nặng gánh sơn hà trên vai?

Thiên Bút

Thứ Hai, 2 tháng 11, 2009

THẾ GIỚI SIÊU HÌNH


Tôi xin kể các bạn nghe câu chuyện về một thế giới khác với thế giới vật thể hiện tại của chúng ta.
Gọi là siêu hình hay cõi bên kia đều được,chuyện xảy ra ngay tại nhà tôi quãng sau tháng 4 đen /1975.

Hôm nay ngày lễ Halloween của nước Mỹ, nhìn những bộ trang phục..con ma, những bộ xương đầu lâu treo lủng lẳng bên khung cửa sổ nhà hàng xóm làm tôi liên tưởng đến chuyện ..ma nhà tôi ..ở VN .

Lúc đó nhà tôi ở BMThuột tọa lạc góc đường Hùng Vương & Bà Triệu, con đường Bà Triệu dài không đầy nửa Km mà có tới 3 trường học. Ngay đối diện góc nhà là Trường Tiểu Học Bà Triệu, chạy dài lên một chút là trường Sư Phạm mà bên kia là Phi trường quân sự L19 phía cuối dốc đường phía này là Trường Trung Học Tổng Hợp BMT.
Tôi kể tỉ mỉ vậy vì chuyện xảy ra ngay trước trường Bà Triệu.Sau ngày 10/3/75 BMT bị thất thủ , cả nhà tôi chạy vào rừng cao su tá túc ở tại đồn điền CHPI của Pháp vì người anh rễ có người quen làm việc tại đó.
Khi mọi chuyện tạm lắng ổn định thì chúng tôi lục tục quay trở về, đến đầu ngõ thì hoang tàn lạnh vắng, may mắn nhà tôi không bị cháy rụi như những căn nhà chung quanh vì pháo kích B40 của ViXi.,cảnh tượng chao ơi xơ xác tiêu điều , chúng tôi vào nhà nhặt nhạnh mọi thứ ..làm lại từ đầu . Cũng nói thêm là vào khoảng năm 1968_70 Ba tôi đã xây một căn hầm kiên cố trú ẩn ngay dưới giàn hoa Thiên lý, bên trên đổ bê tông dày hơn cả mét ,làm bệ xi măng chúng tôi hay lên ngồi chơi, phía dưới là đường hầm thông 3 phòng để khi có pháo kích phi trường thì xuống ẩn núp. Những đêm B40 bắn rát chúng tôi ngủ luôn dưới hầm , ai học bài thì học bài , soạn bài chơi cờ tướng đọc báo nghe Radio ..vì điện đuốc đầy đủ qua hôm sau không phải đi học hay đi làm càng thích nữa..
Hôm 10/3 pháo kích bắn quá rát, suốt đêm , lại không nghe được đài phát thanh, Ba tôi nói chắc có đụng lớn rồi..tới sáng nhìn qua khe hầm thấy toàn dép Râu bộ đội chạy trên đường từ hướng phi trường xuống, Ba tôi xanh mặt Việt cọng vô tới rồi...Ba xây lại hỏi má tôi ;

- Mạ nó ơi còn gạo bao nhiêu ? Má tôi đáp .
- Còn nguyên bao và 3 thùng mì. Ba tôi thở phào nhà mình đông tới 16 miệng ăn..có 2 cô giáo tá túc nhà tôi nữa .

Rồi 3 ngày, năm ngày, một tuần lễ trôi qua, chúng tôi ở dưới hầm mà lòng lo sợ vô cùng, không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra đây ? Thì một buổi trưa nghe tiếng gỏ cửa rất gấp, rồi giọng của anh Hội Quán Bâng Khuâng vang lên . . .
- Bác ơi ! còn ở nhà không .
Ba tôi lật đật chạy lên hỏi anh .
-Tình hình ra sao rồi . Anh đáp :
- Ngoài Phố người ta chạy gần hết rồi, Bác cho cả nhà chạy đi thôi, sắp có đụng lớn đó, chạy về Nha Trang đi Bác . Ba tôi nói :
- Nhà con gái đông, chạy thì ngại quá, mà ở lại cũng không được .
Rồi cuối cùng nhà tôi cũng chồng chất lên xe hơi, ai có Honda thì chạy kế bên và thẳng vô CHPI mà tôi nói ở trên .

Ở trong CHPI được đâu khoảng mươi ngày thì về lại chứng kiến cảnh hoang tàn đổ nát khắp nơi .
Ba tôi bước chân xuống hầm đó đây vung vãi mấy bộ đồ trân ,mấy tấm bản đồ và hai trái lựu đạn...vậy là ban chỉ huy có đặt ở đây...

Tôi nhớ lại lúc cả nhà chất lên xe chạy, tôi nhìn hai bên đằng trước sau cảnh tượng kinh hoàng gấp bao nhiêu lần khi xem phim đệ nhị thế chiến, người bị thương la liệt cứ kêu khát quá khát nước, họ lê lết đầy đường mà xe không thể dừng được vì cũng quá đầy rồi. Lúc đó hai bên đang giao chiến xe chúng tôi chạy giữa lằn đạn, chiếc áo da Ba tôi mặc bị một mảnh đạn chéo xém qua...thế là chạy bán sống bán chết..Cho tới lúc trở về nhà lại dọn dẹp ở tạm yên ổn khoảng tháng, thì có lệnh trình diện để vào diện lưu dung đi làm việc.
Chị em chúng tôi lục tục lên trường và đi dạy Bình dân học vụ nữa Tôi dài dòng về câu chuyện chạy "giặc"trên vì đó cũng là nguyên nhân để chúng tôi được thấy MA
Trong nhà tôi có các cô gíao má tôi cho ở với chúng tôi cho vui vì gần trường , mấy cô xa nhà xa quê, có cô tận trong Nam lục tỉnh, có cô ngay Sàigòn , có cô ở Huế..Vào một tối các cô bàn nhau xin cấu cơ , việc này chúng tôi chưa làm bao giờ nên cũng tò mò muốn biết xem thế nào...12 giờ khuya, chúng tôi bày bàn nhỏ ra trước sân, thắp nhang khấn vái, trên bày mấy ly nước , nhánh chuối ngọn đèn dầu và mấy thẻ nhang..
Khấn vái xong chúng tôi lui vào bên trong để tránh sự dòm ngó, một cô đọc bài thơ dài cầu xin Cơ lên..Ngồi Cơ là Hoa bé giúp việc ở nhà chưa biết chữ,
Sau một lúc Cơ bắt đầu chuyển động rồi chạy ráp các chữ cái trên mặt bìa..Chữ hiện ra rằng ta là Thần linh ngang qua đây , thấy có linh khí nên ghé vào đây, nhưng ta không ở được lâu, ta già lắm mấy trăm tuổi lận...Thăng .
Sau đó cô lại đọc cầu xin lần nữa , lần này Cơ di chuyển rất chậm chạp như tìm chữ vậy , sau đó chúng tôi thấy..chữ Êđê rất nhiều lần, à như vậy người Dân tộc..Cô lại đọc xin một lần nữa cô muốn biết số đồ đạc tư trang của cô bị mất có thu hồi được không? Lần này Cơ lên xưng là một anh lính Sư đoàn 23 Bộ binh , anh chết ngay trước cổng trường Bà Triệu , xác anh văng tung toé, máu anh chảy thấm dưới đất, nảy giờ anh đứng trước cửa không vào được , bây giờ thần đi rồi nên anh mới vào.. Anh nói tên , tuổi ., anh xin pha cho anh một ly càphê và điếu thuốc lá Basto thì phải , sau đó anh nói anh muốn hỏi một điều có được không?là anh rất thích khiêu vũ , anh mời cô Ngọc Lan cô em gái kế út ở nhà ra khiêu vũ với anh bản nhạc Giòng sông xanh..Ngọc Lan lo sợ và nói không biết nhảy, anh nói không sao cứ ra đứng giữa sàn anh sẽ dìu đi..Ngọc Lan là cô em xinh đẹp ở nhà da trắng , tóc dài sống mũi cao.miệng xinh xắn. Lan ra giữa nhà thì tự nhiên như có ai kéo đi theo điệu nhạc hẳn hoi,và nghe như văng vẳng điệu nhạc , lạ một điều chúng tôi không thấy sợ mà lại thấy như thân quen lâu ngày đi đâu bây giờ về lại..
Một chặp sau Lan trở về chỗ và anh nói anh phải đi vì không ở lâu được , và những đồ đạc đã mất không thể lấy lại được dù có thâý người ta dùng trước mắt..Phải tự làm để kiếm lại thôi..rồi anh hỏi có ai muốn nói gì không..Tự nhiên lúc đó tôi vọt miệng hỏi rằng nay mai tôi sẽ sinh bé trai hay bé gái , anh trả lời gái , tôi hỏi tên gì,anh nói tên Quỳnh Anh điều này tôi chỉ mới nói với ông xã tôi , nếu sinh con gái đặt tên Q.A..nếu con trai tên...Sau lần cầu Cơ đó chúng tôi bận tất bật các công việc nên cũng quên đi , cho đến một hôm, tôi có một cô bạn dạy học ở trường Nông Lâm Súc, cô lên ở nhờ nhà vài hôm để đi công chuyện, vì nhà cô ở ngoài Phi Trường Phụng Dực, nghe kể lại chuyện cầu cơ và vong linh người chết..cô mới nói ở chỗ cô ở hầu như tối nào người khuất mặt cũng về kêu nước để uống vì họ rất là khát, cô phải cúng rất nhiều để vong linh người quá cố được siêu..Tối tối cô để tất cả các ly nước trong nhà, rồi thêm tô chậu chén những gì có thể chứa nước được, vì lúc họ mất chắc là mật rất nhiều máu nên luôn luôn khát, cô cúng họ trước sân trên thềm nhà vì họ hay đứng trước cửa. Đó là câu chuyện tâm linh tôi muốn kể các bạn nghe chắc là có một thế giới siêu nhiên quanh ta..chỉ là chúng ta không thấy bằng mắt bình thường thôi..
Xin tạm biệt các bạn còn một câu chuyện nữa về cái chết thương tâm của cô gíao H cũng là bạn thân của người chị tôi..Cô mất trên đường chạy BMT-NT,vì họ biết nhà cô bán vàng nên đã giết cô lấy của cải..Và cô đã về để chỉ tìm xác cô như thế nào..Xin hẹn lại kỳ sau..

TT

Thứ Hai, 19 tháng 10, 2009

RONG CHƠI


Nghiêng nghiêng hoa rụng đầu mày
Sân chiều lắng tiếng sương bay bềnh bồng
Hương trôi nhè nhẹ hư không
Hỏi ra ta vẫn nặng lòng trần gian

Phố xưa rụng hết hoa vàng
Tả tơi còn lại hai hàng cây suông
Bước chân em có nghe buồn
Lên non dõi cánh hạc tuôn ngút ngàn

Còn ta hoài kiếp mênh mang
Thiên thu dấn bước hoang đàng thảnh thơi

QP

VỀ BUÔN MÊ

Mai kia buồn cũng phù vân
Ta về trên núi bâng khuâng phím đàn
Đông tàn xuân hết hạ sang
Lá khô cũng chở thu vàng mà đi
Mình ta ôm hết xuân thì
Chôn trong những lối từ bi của rừng

Quế Phượng

Thứ Năm, 15 tháng 10, 2009

NGUYỆN ƯỚC


Hôm nao em đi lễ chùa
Cho mình nguyện ước giữa mùa hoa sen
Xanh tươi suối tóc mây huyền
Trao anh một kiếp còn nguyên dáng kiều
Ta bà một cõi phiêu diêu
Thiên thu góp lại niềm yêu một đời
Bến mê thăm thẳm chơi vơi
Phù sinh ai có gọi mời ai đâu
Nghiệp duyên ràng buộc với nhau
Kiếp này chưa trọn ,xin cầu kiếp sau

TT

Thứ Năm, 1 tháng 10, 2009

NGUYỆT QUẾ

Nguyệt quế ghé chơi được mấy ngày
Hương thơm lan tỏa khắp đâu đây
Sáng vừa thức giấc qua khung cửa
Đã thấy trăm hoa chờ gió lay

Nguyệt quế trong vườn rụng tả tơi
Thương đời hoa ngắn, lệ tuôn rơi
Thương đời em khổ, hoài trôi nổi
Thương cả tình yêu mòn mỏi đợi

Nguyệt quế sầu ai ủ rũ rồi
Vườn xưa ong bướm vẫn về chơi
Bên nhau say đắm từng câu hát
Quay tít vòng đời đến hụt hơi

Nguyệt quế em ơi tỉnh dậy thôi
Ngoài kia nắng trải khắp núi đồi
Nắng lên chở nặng nièm vui tới
Vào cả vườn hoa nguyệt quế rồi!

HP

Thứ Năm, 24 tháng 9, 2009

NGƯỜI CŨ, TRƯỜNG XƯA . . .

NHẮN GỞI

Mai bạn về thăm quê cũ
Cho ta gửi trọn nỗi lòng
Và rồi thêm gì nữa nhỉ
Dường như chỉ những hoài mong

Từ độ xa quê chiều hôm ấy
Trong ta thường khắc khoải khôn nguôi
Bao đêm ngổn ngang loay hoay mãi
Lặng thầm theo mỗi áng mây trôi

Ly rượu vơi đầy sao nhạt thếch
Bao giờ mới cạn sầu tha hương
Để ta rủ sạch bụi viễn khách
Dốc ngược cho khô đáy hồ trường

Đêm này quê người như lạnh quá
Khẻ ép mẩu gió vào tim hoang
Không nghe chút hương thừa nồng ấm
Ta gọi ta thảng thốt bàng hoàng

Bạn về thưa dùm lời khất hẹn
Rằng ta vẫn nhớ nợ quê xưa
Canh cánh bên lòng luôn thao thức
Đau đáu mãi thôi biết sao vừa

Không quân Ngọc Tự

ĐI THĂM LIBRARY HUNTINGTON



THƠ . . . THƠ . . . THƠ . . . HỒNG PHƯỢNG

Suối Kiết

Suối đợi chờ ai đây
U uẩn buổi chiều nay
Ôm nỗi buồn sâu kín
Im lặng giữa hàng cây
Không một tiếng thở dài
Im ắng chiều tê dại
Êm đềm hoàng hôn xuống
Tình tưởng đã nhạt phai !

Hồng Phượng

Hoa cánh mỏng mong manh
Ôi sắc màu tươi thắm
Như tim hồng rực lửa
Gợi nhớ thời xa xăm…
Phong thơ nào dấu kín
Hờ hững theo tháng ngày
Ươm tình dưới hàng cây
Ơi người yêu bé bỏng
Nâng niu gót chân hồng
Giờ chỉ còn hư không.

Chí Hương

Chỉ một lần khoe sắc
Hoa không giữ được màu
Ít ra cũng có lần
Hương hoa theo chiều gió
Ùa vào tận tim anh
Ơi người yêu trong mộng
Nào có biết hay không
Giông tố dậy sóng lòng !

Thưởng

Tên tưởng chừng mạnh mẽ
Hóa ra thật yếu mềm !
Ước gì anh cận kề
Ơi chiều buồn lê thê
Người một cõi đi về
Gọi đời đến mỏi mê !


Thanh Tài

Thương em đời lận đận
Hồng nhan lắm gian truân
Anh yêu em chẳng quản
Năm tháng trôi ngập ngừng
Hao gầy phận má hồng
Tim em giờ trống vắng
Ai người em say đắm
Ít nhiều em bâng khuâng ?

Thành Đạt

Tuổi lục tuần đến với đời
Hỉ nộ ái ố đã thôi không còn
Ảo ảnh mọt thời vàng son
Nào ai tiếc nuối héo hon xuân thì
Hỡi tình yêu, chỉ ta đi
Về miền hạnh phúc, biệt ly xa vời
TA bên em suốt một đời,
Thương nhau trọn kiếp chớ rời nghe em!

Thu Minh

Tên em thật trong sáng
Hoài niệm những ngày vàng
U tối chừng quên lãng
Mùi hương ngọc lan đêm
Ít thôi nhưng êm đềm
Nhẹ nhàng và thoang thoảng
Hoa tình yêu vừa sang

Ngọc Lan

Này em thân yêu ơi
Ghé lại một lần thôi
Ôi nồng buổi trưa vắng
Chút tình xưa xanh xao
Lận đận và lao đao
Ao ước một ngày vui
Ngày có em an ủi !


Như Mai

Ngày em còn đi học
Hay thơ thẩn đường chiều
Ước thương yêu thật nhiều
Mai vàng rộ mấy bữa
Ai dìu em đi giữa
Im mát những hàng cây ?


Khi nào em trở lại đây
Ít nhiều anh biết để xây mộng tình
Mai sau dẫu có một mình
Cho dù tình có lặng thinh cũng đành
Hai ta cách trở sông Gianh
Yêu nhau không trọn, xin đành kiếp sau !

Hải Định

Hai vai chở nặng nợ đời
Áo xưa nay đã một thời gió sương
Im nghe trống điểm canh trường
Đâu đây có tiếng người thương vọng về
In hình năm cánh sao Khuê
Như tình em đấy lỗi thề cùng anh
(Thơ . . Hồng Phượng)

Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2009

CẢNH DỬ & GƯƠNG VỠ LẠI LÀNH

Cảnh dử nhân câu khứ
Cảnh quy nhân vị quy
Vô phục Hằng Nga ảnh
Không lưu minh nguyệt huy!
(Tích Công chúa Lạc Xương & Phò Mã Đức Ngôn)


Nửa mảnh gương thề theo bóng ai
Nửa gương quay lại vắng hình hài
Hằng Nga soi bóng hề chẳng thấy
Chỉ thấy trăng treo bóng nguyệt đài!
(Tích chuyện Gương vỡ lại lành)
Thiên Thanh

Thứ Hai, 14 tháng 9, 2009

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2009

VĂN TẾ


….Hỡi ơi!

Vận nước điêu linh, sông buồn núi thảm,
Cơ trời ảm đạm, đất lạnh người sầu!
Mấy cuộc bể dâu , rầu rầu ly loạn,
Bao lằn tên đạn, lớp lớp xung phong…
Vị quốc thân vong, anh hùng tử sĩ !
Nghìn thu vạn kỷ,
Tổ Quốc ghi danh,
Hồn phách hiển linh, về đây chứng giám…

Nhớ những linh xưa…bao mùa ly loạn,
Gối đất nằm sương…Chiến trường u hiểm !
Đánh giặc ngày đêm, giữ gìn non biển,
Giữ gìn từng tấc đất ông cha,Chính các anh…
những người lính Cộng Hòa…
Đem máu đỏ thắm tô cờ Tổ Quốc !
Chính các anh…
Xuất thân từ những nhà nông, tay cày tay cuốc…
Hoặc thư sinh vừa rời ghế học đường !
Đấng trượng phu… chí tại bốn phương,
Câu hồ thỉ…tung hê cho thỏa !
Rồi một sáng đầu Xuân, hay một chiều cuối Hạ,
Lòng quyết lòng…lo trả nợ nam nhi,
“ Giã nhà mang lấy chiến y,
Súng cầm tay…quyết một đi diệt thù !”
Các chị nữa…thân liễu bồ mảnh dẻ,
Nước lầm than…hồ dễ làm ngơ?
Cùng chung sống dưới màu cờ,
Gái trai đều phải chung lo diệt thù !
Ôi ! Chiến trận, mịt mù lữa khói,
Pháo từng bầy,may rủi đường tơ!
“ Phải đành xác bọc poncho,
Phải đành vùi dưới nấm mồ…rừng sâu?”
Nhớ những linh xưa…nhìn đất não trời sầu
Tháng Tư đó…ôi miền Nam sụp đổ…
Chính các anh…dù trong mạt lộ…
Vẫn bền gan…chiến đấu đến tàn hơi…
Nhớ những linh xưa…hồn dũng tướng sáng ngời…
Nào những: Nguyễn Khoa Nam. Phạm Văn Phú,
Lê Văn Hưng,Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ…
Thà tự sát để giữ tròn danh tiết…
Và còn nữa …những oan hồn thê thiết,
Chết trong tù cải tạo lắm tang thương !
Hay chết giữa rừng sâu, chết vượt biển tìm đường,
Ôi cái giá tự do…phải trả bằng trăm điều oan nghiệt,
Ôi càng nghĩ…lòng đau thương thống thiết…
Giặc Đỏ chiếm miền Nam, đào xới mả mồ !
Khinh Phật Trời, theo ngụy thuyết Tam Vô,
Trả thù cả với xương người Tử Sĩ !
Dâng Đất Biển Rồng Tiên…cho Tàu Đỏ Bắc Phương !
“Ải Nam Quan !
Ôi Ải Nam Quan !Bán rồi ! Đứt ruột !
Dân Nam lệ nhòa !”
Đất biển đó, Ông Cha tạo dựng,
Bốn ngàn năm…giữ vững giang sơn !
“ Giờ đây đất biển căm hờn…
Vì quân Hồ Cộng, bán hồn Tổ Tiên !”

Hởi Tử Sĩ ! …Hồn linh thiêng có biết ?
Nơi xứ người thê thiết phận tàn binh !
Chúng tôi đây, giờ bóng đã xế mành…
Từng bật khóc nhiều phen…cho cơ đồ bị mất,
Từng bật khóc nhiều phen…nhớ bao người đã khuất…
Mà hồn vật vờ, phách cũng tang thương !
Xin hãy về đây trong màu khói trầm hương…
Kìa…hồn linh hiển…như chập chờn hiển hiện,
Cùng với chúng tôi…
Những người lính già tạm cư đời dâu biển,
Rũ chinh y…buồn với cuộc phong ba !
Ta cùng nhau thông cảm lệ nhòa,
Chia xẻ nỗi đắng cay… nhiều tủi nhục !…

Hồn hỡi hồn ơi !…Thôi thì thôi…dòng đời luôn có khúc,
Khi gập ghềnh, khi bình lặng, lúc gian truân,
Miễn kẻ còn đây, với kẻ chết chẳng chia phân….
Cùng hoà nhập theo mối thù vong quốc !
Tin tưởng một ngày mai, xoay chiều thế cuộc,
Chính nghĩa thắng hung tàn…Xin hồn hãy an tâm !…
Rượu thịt nơi đây…tuy cũng nhuốm phong trần,
Vì xứ khác, khác vị mùi của quê ta đó !
Nhưng với tấm lòng thành, người cùng chung đất Tổ,
Tưởng niệm người vị quốc vong thân !
Hãy về đây…theo khói tỏa hương trầm…
Xin thượng hưởng ! Hồn ơi xin thượng hưởng ! !

NHẬT-HỒNG

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2009

Bao lần bặt tín vô âm!
Phòng the lạnh lẽo chẳng nồng hơi xuân
Quỳnh dao khô héo,đài rêu mọc
Bụi bám,màn treo luống lạnh lùng!!


Chinh phụ ca,chồng đi lính thú biên cương

Hà kỳ nhứt khứ âm tín đoạn
ý thiếp bình vi xuân bất noãn
Qùynh diêu giai hạ bích đài không
san hô trướng lý hồng trần mãn!

Thứ Ba, 8 tháng 9, 2009

NỢ TÌNH

Có lẽ ta nợ nhau kiếp trước
Nên bây giờ tim vẫn miên man
Tóc đã bạc tình còn lảng đảng
Giấc không yên, mộng vẫn không thành

Dù găp lại, đành lòng thôi vậy
Tình vẫn như bóng vỡ trên tay
Sao ta mãi làm người ngậm ngãi
Đi tìm trầm lạc lối bao năm...

Em vẫn vậy, nghìn xưa vẫn vậy
Dốc đoạn trường, Ta đã đi qua
Bờ quạnh hiu, Em vẫn nhìn xa
Chân sỏi đá, chưa mòn gót đỏ !

Chút kiêu ngạo thêm phần bướng bỉnh
Chỉ làm ai sỏi mềm chân cứng
Thôi ta đứng bên này bờ vực
Nguyện làm thân gỗ đá bao dung !

Kim Chi

Thứ Sáu, 4 tháng 9, 2009

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2009

TÂM SỰ CỦA MỘT CỰU NỮ SINH VIÊN LUẬT KHOA SAIGON

Chỉ vài ngày sau khi Sài Gòn mất là hai người bạn ấy đến thăm tôi. Phan hoạt động nội thành, còn Trần thì từ bưng biền trở về.
Cả hai tiếp thu Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, và họ gặp em gái một người bạn thân của tôi lúc ấy hiện là Sinh Viên QGHC nên biết tôi đã di tản từ Đànẵng vào Sài Gòn, vì thế họ đã tìm đến thăm tôi.

Biết tôi vừa sinh cháu trai chỉ được mười mấy ngày nên hai người khi đến, đã cầm theo quà tặng là một hộp sữa bột. Tôi bấy giờ như một cái xác không hồn, lặng lẽ ngồi tiếp hai người khách bất ngờ với một “chiến tuyến” được phân định rõ rệt trong vô hình giữa chúng tôi, những kẻ đã từng một thuở là bạn của nhau! Tôi chua chát nghĩ thầm: “Hai người đến để nhìn cho thật rõ mặt kẻ thua cuộchôm nay là tôi đấy à!”
Nhớ ngày khi tôi vừa mới bước chân vào trường Luật Sài Gòn thì tất cả bọn họ đều là những học huynh của tôi, kẻ thấp nhất cũng học trên tôi một lớp. Có người năm thứ ba, và có kẻ đã cao học. Cả cái nhóm Ban Xã Hội Luật thuở ấy đã cùng nhau sinh hoạt thật là vui vẻ dễ thương.

Những buổi sáng đến trường khi trời còn tờ mờ nên vào giờ đổi lớp đầu tiên là chúng tôi gộp tiền nhau lại để một người trong nhóm chạy ra bưu điện mua bánh mì Hương Lan đem về rồi cùng nhau ăn sáng, cười đùa. Cuộc đời sinh viên của chúng tôi đã mở ra êm ả theo với “con đường Duy Tân cây dài bóng mát”, rộn rã những tình thân và những giấc mộng đời xanh ngát.

Trong nhóm, tôi thân nhất với hai anh Phan, Trần, và với Lâm. Lâm sau này đã rẽ bầy, quaQuốc Gia Hành Chánh. Hiện nay Lâm đang sinh sống ở Melbourne, Australia, và hiện đang là “the webmaster” của một website chống cộng rất cực đoan, kiểu chống Cộng gây nơm nớp lo âu cho những bạn bè quan tâm.

Khác với Lâm mà cuộc sống lúc bấy giờ có phần khó khăn, Phan và Trần đều là hai công tử con nhà giàu nhưng đã lao đầu vào những công tác xã hội một cách nhiệt tình và triệt để, khiến tôi lúc ấy vô cùng thán phục! Họ không giống như hầu hết các sinh viên thời thượng Sài Gòn thuở ấy, ngày Chủ Nhật là ra ngồi ngất ngưỡng ở Brodard, ở La Pagode, để tán hươu tán vượn và rửa mắt với phố xá dập dìu tài tử giai nhân, thụ hưởng thứ thanh bình xa xỉ trong lòng một đất nước đang lửa khói chiến tranh.

Hai thanh niên này đã cùng với dăm ba người bạn của họ lần mò vào những khu xóm nghèo nàn để dạy đọc, dạy viết chữ, và dạy những phương pháp giữ gìn vệ sinh căn bản cho các trẻ em sống ở đó. Ôi những trái tim nhân ái tràn đầy lý tưởng bao la trong ngưỡng mộ của tôi!

Cho đến một hôm thì thông cáo dán đầy trường Luật, tố cáo những tên sinh viên Cộng Sản đã ẩn núp trong Ban Xã Hội, trong ấy có Phan có Trần và một số các tên tuổi khác nữa! Tôi ngẩn ngơ để thấy rằng thì ra mình non nớt quá! Nhưng thật may, ngoài những công tác xã hội để phục vụ cho sinh viên lúc bấy giờ như liên lạc với Hợp Tác Xã Nguyễn Huệ để mua vải giá rẻ về bán cho sinh viên hay tham gia cùng với các trường bạn trong công tác quyên góp giúp đỡ các đồng bào bị thiên tai bão lụt thì tôi chưa hề bị họ lôi cuốn xa hơn vào những mục đích chính trị riêng tư của họ.

Dòng đời cứ thế đã trôi nhanh, đẩy đám bạn bè chúng tôi mỗi người lưu lạc một hướng! Tôi yên thân vào làm việc ở một ngân hàng lớn. Phan và Trần sau đó cũng phải khoác vào người bộ quân phục.

Một hôm Phan tìm đến thăm tôi, cho tôi biết Trần hiện đang sống ở Pleiku, không bị đưa đi tác chiến vì được một vị quan lớn giữ lại làm việc văn phòng để ngày ngày đến nhà dạy kèm cho các con của ông ta học. Còn Phan thì nhờ núp bóng cậu là một vị Đại Tá (cũng là cha nuôi anh ta từ ngày anh ta mồ côi cả bố lẫn mẹ) nên cũng được tạm yên thân. Bẵng đi một dạo, bỗng một hôm Phan lại đến tìm tôi để cho tôi biết rằng Trần đã trốn vào bưng! Phan nói: “Anh cũng muốn được như Trần nhưng anh không thể, vì anh không thể nào gây liên lụyđến cậu của anh!” Rồi Phan lại trầm ngâm bày tỏ thêm: “Anh bất lực và hèn quá phải không vì cứ phải cúi đầu nhẫy nhụa sống trong một xã hội quá thối tha và bất công!”

Tôi khẳng định lập trường của mình: “Em thì lựa chọn Tự Do nên không thắc mắc gì khác hơn nữa hết! Xã hội này thối tha và bất công nhưng chúng ta cũng vẫn còn có thể xuống đường để chống đối kia mà.”

Tôi chỉ bày tỏ ngần ấy, còn đối với lựa chọn của họ, tôi không có ý kiến. Vì họ đều là những thanh niên trí thức và có lý tưởng nên tôi không ngu dại mất thì giờ để thuyết phục họ.
Theo tôi thì tất cả mọi người hoàn toàn tự do trong chọn lựa của mình để đi con đường mà mình muốn đi.

Hôm ấy, sau ngày nước mất nhà tan 30 tháng 4 chỉ mấy hôm, hai vị học huynh này đến thăm tôi để ngầm cho tôi biết rằng tôi đã là kẻ thua cuộc trong chọn lựa năm xưa của tôi, hay nói rõ ràng và chính xác hơn, là kẻ chiến bại (?!) Con đường tôi đã chọn lựa và đã đi, tôi sẽ vẫn mãi mãi đi, không bao giờ rẽ lối hoặc đổi chiều đâu, các anh ạ! Gặp lại các anh chỉ để tôi càng khẳng định hơn là mãi mãi chúng ta không bao giờ có thể đứng cùng chung một chiến tuyến! Không bao giờ! Gia đình tôi thuộc hàng ngũ “đại ngụy” vì đã có đến bốn đấng nam nhi chi chí vác khăn gói cùng lên đường một lượt vào trại tập trung cải tạo .
Hai ông anh ruột, một ông anh họ mà ba má tôi đã nuôi nấng từ thuở nhỏ, và phu quân của tôi. Ở nhà thì ông em út còn học lớp 11 của chúng tôi lại nổi loạn theo đám bạn bè đi dán truyền đơn “chống cách mạng” để rồi cuối cùng cũng theo chân các anh của mình vào nằm đếm rệp trong nhà tù!

Thêm một năm trôi qua, niềm hy vọng vào một sự lật đổ và đổi thay đến từ những sức mạnh vạn năng hải ngoại đã mỏi mòn dần, nhưng đôi mắt của đại đa số những người dân miền Nam chúng tôi thì mỗi lúc đã một sáng hơn để không còn một ảo tưởng nào về thiên đường Cộng Sản nữa. Ngay đến cả những cây cột đèn vô tri trên đất nước chúng tôi cũng ước muốn được rời bỏ quê hương, vượt biên tìm tự do, không phải có người đã nói như thế hay sao!

Một hôm, bỗng dưng tôi tình cờ gặp lại Phan. Tôi đã không thể ngăn được mình, buột miệng hỏi anh: “Cho đến hôm nay, anh vẫn còn thấy rằng con đường anh đã lựa chọn là lý tưởng hay sao?” Phan thành thật trả lời: “Lý tưởng vì anh tưởng rằng có lý!” Lòng tôi đã chùng xuống trong một nổi cảm thương thay vì thù ghét bởi câu trả lời quá buồn bã, chua chát, và rồi chỉ nghe tội nghiệp cho một người đã một thuở nào trái tim mang đầy những mộng tưởng tốt đẹp. Anh ta chọn lầm con đường để đi, nhưng mộng tuởng của anh ta không sai trái. Công bằng để nói, cái xã hội mà trước đây chúng tôi đã sống quả thật cũng chả phải là một xã hội hoàn hảo gì. Xã hội ấy cũng đầy dẫy những bất công hiếp đáp, những cảnh con ông cháu cha bất tài vô tướng ăn trên ngồi trước, những mua quan bán tước, những lợi dụng chức quyền đến làm công phẫn lòng người! Phan mơ ước một chế độ công bằng hơn, tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người dân, và điều này tôi có thể hiểu được. Nhưng tại sao Phan lại nghĩ rằng một chế độ độc tài sắt máu như chế độ Cộng Sản có thể giúp thực hiện giấc mộng này cho dân tộc thì quả thật tôi không cách nào hiểu được, không cách nào!

Những ngày cuối còn ở Sài Gòn, tôi biết được rằng cả cái đám sinh viên Luật thiên tả ấy đang được đào tạo lại trong lớp pháp lý Cộng Sản để trở thành những viên chức hành chánh hay pháp luật thực thụ của chế độ vì đã bắt đầu bước qua giai đoạn mà đảng Cộng Sản Việt Nam phải sử dụng đến những người trí thức trong guồng máy của họ khi họ bắt buộc phải mở rộng cánh cửa ngoại thương để bước ra khỏi sự nghèo đói và lạc hậu..

Từ trại tị nạn Pulau Bidong, 3 mẹ con tôi đã được Canada tiếp nhận cho định cư, và hè năm 1999 tôi đã theo con gái tôi về Việt Nam để giúp cháu làm cái “tour package” của hãng “Premiere Tours” mà Việt Nam là một trong những địa điểm du lịch của “tour” này. Bạn tôi là Hoàng cứ khăng khăng bắt tôi phải đến gặp đám bạn cũ ở trường Luật ngày xưa:
- “Chị phải đến thăm họ với H. rồi mới biết! Các anh ấy vẫn quý chị lắm mà, để H. phone cho họ.”
Sự gặp gỡ thăm viếng này đều do một bàn tay sắp đặt của bạn tôi, và hai mẹ con tôi chỉ việc theo đuôi nàng mà thôi.
Theo mệnh lệnh của Hoàng, chiếc taxi dừng lại trước một ngôi biệt thự kín cổng cao tường để cho 3 người chúng tôi bước xuống.

Cái cổng sắt cao nghệu đến tôi không thể nào với tay qua được. Hoàng bấm chuông, và có gia nhân ra mở cửa. Trần và mấy người bạn nữa nghe tiếng chuông, cũng đang từ trong ngôi biệt thự to lớn, tươi cười bước về phía chúng tôi. Cánh cổng ngôi biệt thự vừa được mở ra là con gái tôi đã thảng thốt:

- “Eo ôi, nhà bạn của mẹ sao mà nguy nga và đẹp kinh khủng thế này!” Ấy là cháu đang sống ở Canada và đã được trông thấy bao nhiêu là nhà cửa to lớn đẹp đẽ nơi đây rồi! Trước khi đến được ngôi nhà lớn, chúng tôi phải đi qua một khu vườn mênh mông có hồ nuôi cá sấu, hồ sen, hồ súng, và các loại cây kiểngđược cắt xén tỉ mỉ thành hình chim công, chim phượng, cò, voi, thỏ, ngựa, vv….và vv…… Giữa khu vườn là ngôi nhà nghỉ mát hình bát giác với rất nhiều những hòn non bộ quanh đó.

Quan sát tỉ mỉ khu vườn này một vòng, tôi hỏi Trần liền: “Anh làm sao có thể tự tay chăm sóc mấy con cá sấu và cắt tỉa các cây kiểng này chứ?” Trần cười: “Phải thuê người chăm sóc chứ!” Tôi nói: “Chắc tốn tiền bộn lắm!” Trần trả lời tỉnh bơ: “Mỗi tháng khoảng 1 cây vàng mà thôi!” “Chỉ một cây vàng thôi!”, trái tim tôi bỗng dưng nhói thắt lại!

Tôi nhớ đến bác xích-lô mà ngày mới về, hai mẹ con tôi đã gặp ở chợ Bà Chiểu, và từ đó sáng sớm tinh mơ nào bác ta cũng đến đậu xe ngay trước cổng nhà chúng tôi đang tạm ở.
Chuyện trò hỏi han bác thì chúng tôi được biết mỗi ngày nếu may mắn, bác có thể kiếm được khoảng 1, 2 đô la Mỹ để đổi gạo cho gia đình. Có ngày không kiếm được một mối nào hết, bác phải vác xevề không, vì bây giờ các con đường mà xe xích-lô có thể chạy được bị giới hạn lắm nên ít du khách muốn đi xích-lô. Xích-lô chạy chậm, lại phải chạy lòng vòng trong trời nắng như thiêu như đốt và trong cả bụi bặm ô nhiễm của thành phố Sài Gòn, vì thế khó mời mọc được du khách! Mẹ con chúng tôi vì lòng “không nỡ” nên từ đó mỗi ngày đều phải ngồi xích-lô của bác để giúp, khiến mỗi buổi tối khi về đến nhà và lau mặt thì chiếc khăn mặt của cả hai đều đen như lọ nghẹ bởi khói xe Sài Gòn, còn da dẻ thì nước da trắng trẻo ngày mới về đã trở thành làn da rám nắng màu bánh mật! Vô vàn cảnh nghèo đói rất đổi thương tâm nữa được gặp ở ngay trong lòng thành phố Sài Gòn lộng lẫy mà tôi không thể nào kể xiết!

Bước vào bên trong nhà, sự sang trọng của giai cấp “quý tộc mới” này còn được trông thấy rõ ràng hơn với vô số đồ gỗ và các đồ vật quý giá được chưng bày khắp mọi nơi. Bắt đầu cuộc trò chuyện là tôi đã không ngăn được tôi phải mở miệng nói liền tức thì: “Nghe mấy bác xích-lô than thở mà tội quá, mỗi ngày lợi tức 1 đồng đô-la Mỹ có khi cũng không kiếm được thì làm sao có thể sống!” Trần trả lời ngay, cười cợt, dửng dưng: “Ồ, xạo đó, có khi họ kiếm được bộn lắm!” “Ba xạo? Bộn lắm là bao nhiêu hở? Có được 1 cây vàng như con số mà hàng tháng anh phải bỏ ra để nuôi cá sấu và chăm sóc cây kiểng hay không?”, tôi tự hỏi thầm trong nổi phẫn nộ đến lùng bùng tai óc! Nếu kẻ dửng dưng nói ra lời này chỉ là một tên VC tôi không quen không biết thì tôi cũng chẳng thèm lý đến để có cái phản ứng giận dữ ấy vì với tôi: “Cái lũ đó, chúng là như thế mà!” Nhưng đây là vị học huynh mà tôi đã từng ngưỡng mộ. Vị học huynh khao khát công bằng xã hội và cơm ăn áo mặc cho dân tộc của anh ta. Vị học huynh đã từng hy sinh những ngày Chúa Nhật ngồi Brodard, Pagode, lặn lội vào những khu xóm nghèo nàn để lau tay, rửa mặt, để dạy đọc dạy viết cho những trẻ em lem luốc rách rưới không đủ điều kiện đến trường. Không phải là phẫn nộ mà là một nổi đớn đau thất vọng gần như là tuyệt vọng trong tôi! Một chế độ tham tàn đến như thế nào mà đã biến được người sinh viên quá trong sáng quá lý tưởng năm xưa trở thành một kẻ hoàn toàn không còn chút nhân tính hiện đang ngồi trước mặt tôi đây (???!!!)

Buổi tiệc chào đón tôi đã được bày biện trong căn nhà nghỉ mát hình bát giác (giống như lầu uống rượu ngắm trăng của các vị đại phú gia hay vua chúa Trung Hoa thời cổ xưa) với những món ăn đặc biệt và đắt tiền được nhà hàng đem tới. Bạn bè ngày xưa khá đông, trong số ấy dĩ nhiên có cả anh Phan. Nhưng cũng có dăm ba người lạ mặt với tôi mà tôi đoán là những kẻ đến để nịnh bợ chủ nhân lúc đó đang là một vị Giám Đốc Công Ty Xuất Nhập Khẩu TP HCM.

Tôi ngồi vào bàn và chỉ ăn uống lấy lệ vì không còn một chút hứng thú, điên tiết bởi câu bợ đỡ thối tha từ miệng ông thầy dạy Anh Văn của Trần khi tự cho rằng ông ta “đi Mỹ chỉ để làm một thứ ăn mày Mỹ mà thôi!” “Biết mình đi Mỹ chỉ để làm một thứ ăn mày mà vẫn đi thì đúng là một kẻ sĩ vô liêm sĩ!”, tôi búa liền một búa!

Buổi tiệc hội ngộ từ giây phút ấy nặng nề mùi thuốc nổ từ vị khách quý được ưu ái mời đến là tôi, khiến mọi người yên lặng như tờ. Tôi cũng mong có người đứng dậy ra về để đứng dậy theo, nói lời cám ơn và giã biệt gia chủ cho thật nhanh.

Cũng trong chuyến về Việt Nam rất ngắn ngủi này, tôi đã có cơ hội hơn những kẻ về thăm quê hương khác, được chứng kiến hoạt cảnh “tham nhũng tiếp nối tham nhũng!”
Hoàng không biết đã vô tình hay cố ý, đưa tôi đến nhà một vị luật sư tên tuổi của Sài Gòn ngay sau vụ án xử tử hình nhiều tay đầu sỏ tham nhũng của chế độ. Tôi ngồi đó để nhìn kẻ ra người vào lũ lượt suốt một ngày, mặc cả với vị “luật sư trung gian” về giá cả để án tử hình sẽ được giảm thành án chung thân, án chung thân thành án 30 năm, vv….và vv…., khi họ chống án.

Tôi ngồi để nghe họ mặc cả 300, 400, 500 cây vàng như chỉ đang nói đến 300, 400, 500 cây kẹo hay cây tăm thôi mà lạnh gáy! Giai cấp tham nhũng này bị triệt tiêu chỉ để nuôi béo bở hơn một giai cấp tham nhũng khác mà thôi!

Thật tội nghiệp cho đại đa số những người dân lao động Việt Nam lương thiện, dù quần quật đổ mồ hôi hay cả máu nữa, cũng vẫn không thể kiếm đủ cơm ăn áo mặc!
Đó là kết quả sự chọn lựa của các học huynh tôi! Một Phan rồi chỉ biết thụ động cúi đầu sống cho hết kiếp với sự chọn lựa sai lầm của mình, dù trong lòng có lắm chua chát và ít nhiều hối hận: ”Lý tưởng vì tưởng mình có lý!”

Trần thì đã hoàn toàn thả trôi lương tri và mộng tưởng của anh ta theo với cái chế độ tham tàn để cùng quay khít khao một nhịp với cái guồng máy mà chắc chắn rồi một ngày cũng sẽ nghiến nát anh ta ra thành tro bụi mà thôi!

Lại có một kẻ trăn trở chống chỏi trong chọn lựa để rồi cuối cùng đã phải buông tay ra đi trong tận cùng của tuyệt vọng! Vĩnh Thọ là một phi công A-37 thuộc phi đoàn 524 tại căn cứ không quân Nha Trang.
Anh đã thụ huấn ở Mỹ và trở về nước tháng 10/1968 với Cấp bậc Trung Úy. Trong một phi vụ bay huấn luyện đêm để duy trì khả năng và tái xác định hành quân bằng phi cơ A-37 thì không biết vì lý do gì, máy bay vừa cất cánh là bị rớt ở cuối phi đạo gần bờ biển.
Thoát chết nhưng Vĩnh Thọ đã bị phỏng rất nặng ở đôi tay, khiến gân ở hai tay anh bị rút lại và gân các ngón tay cũng rút thành tật.
Vì vậy mà từ đó, vị phi công A-37 này đã không thể tiếp tục nghiệp bay được nữa. Nhưng sau cái tai nạn máy bay A-37 bị rớt ngay tại bờ biển, đãnổi lên khắp mọi nơi ở Nha Trang quá nhiều những lời đồn đãi như những huyền thoại về vị phi công này: “Vĩnh Thọ là VC nằm vùng. Mỗi lần mang bom đạn đi hành quân thì Vĩnh Thọ thả bom lên quân bạn hoặc mang bom đi thả tầm bậy tầm bạ chứ không thả vào mục tiêu được phòng hành quân chỉ định, vv….và vv….”

Về chuyện Vĩnh Thọ có đích thực là VC nằm vùng hay không thì rồi từ từ chúng ta sẽ có nhận định chính chắn. Còn vấn đề cố ý thả bom ngoài mục tiêu chỉ định thì mới gần đây thôi, qua sự tìm hiểu với một người quen là một cựu Thiếu Tá Phi Công A-37 cũng cùng phi đoàn với Vĩnh Thọ ngày xưa, anh NVD hiện đang định cư tại Australia, tôi được biết một cách khẳng định rằng chuyện này tuyệt đối không thể nào!
Theo anh NVD cho biết thì mỗi chiếc khu trục cơ khi đi hành quân chỉ có 1 pilot.. Nhưng không bao giờ hành quân một chiếc đơn lẽ mà luôn luôn đi hợp đoàn tối thiểu là 2 chiếc, thường thì 3 chiếc. Lúc ấy Vĩnh Thọ chỉ là một “Phi tuần viên” phải bay theo sự hướng dẫn của “Phi tuần trưởng” thì làm sao anh ta có thể tách hợp đoàn để đi thả bom tầm bậy tầm bạ được chứ (???!!!) Anh NVD còn nói thêm: “Dẫn một hợp đoàn đi hành quân, vị Phi tuần trưởng để yên cho ai muốn làm gì thì làm à? Sau khi hoàn tất bất kỳ một phi vụ hành quân nào, nhiệm vụ của Phi tuần trưởng khi về đáp là phải báo cáo rõ ràng cho phòng hành quân : Phi vụ lệnh số mấy? Call sign là gì? Hợp đoàn bao nhiêu chiếc? Mang bom đạn loại gì? Toạ độ mục tiêu chỉ định là gìvà ở đâu? Bom đạn thật sự đánh ở tọa độ nào, cách quân bạn bao xa (nếu có)…vv…và vv… Tôi là một Phi tuần trưởng trước khi Vĩnh Thọ được bổ nhiệm về PĐ 524.”

Sau khi anh Vĩnh Thọ không còn bay nữa thì thỉnh thoảng mỗi lần Ba tôi về Nha Trang nghỉ ngơi để viết lách và soạn bài vở cho khoá giảng tới, tôi vẫn thấy anh Thọ đến nhà đàm đạo học hỏi thêm với ông. Ba tôi vẫn khen anh Vĩnh Thọ thông minh và là người chịu khó đọc sách, khá có kiến thức.
Nhưng ông lại lắc đầu: “Tiếc là hắn đang đắm chìm trong thiên đường ảo tưởng bằng pha lê của hắn!”
Những lời đồn đãi nào rồi cũng phải lắng dịu xuống theo với thời gian. Về sau tôi không còn sống ở Nhatrang nữa, và anh chị em gia đình tôi cũng di chuyển gần như toàn bộ vào Sài Gòn với Ba tôi, vì thế mà những việc đã xảy ra sau này ở Nhatrang, tôi không còn được biết gì hết.

Vận nước đổi dời, cuộc sống chúng tôi tất bật hơn xưa. Bây giờ ngày ba bữa lo cơm ăn áo mặc đã mệt nhoài, còn đâu thì giờ và tâm tư để thắc mắc đến chuyện của ai nữa cơ chứ! Thế mà bỗng một hôm, anh Vĩnh Thọ xuất hiện trước cổng nhà Sài Gòn của chúng tôi, ốm yếu và xanh xao như là một bóng ma! Bọn tôi đồng “Ồ!” lên một tiếng thảng thốt khi thoạt vừa trông thấy anh cà nhắc cà nhót, khập khểnh bước vào nhà. Ba tôi lúc ấy đang ngồi trong phòng khách nhìn ra bên ngoài nên trông thấy anh Vĩnh Thọ ngay, và ông cũng ngạc nhiên ú ớ không ra lời!
- “Thưa Bác, Bác có nhận ra con không?”, anh chào Ba tôi ngay.
- “À, Vĩnh Thọ phải không?”, Ba tôi cũng mừng rỡ lắm. Anh ngồi xuống và bắt đầu kể, không chờ đợi Ba tôi phải hỏi han:
- “Con lầm quá rồi Bác ơi! Con có tội! Con quá u mê! Bác ơi, con chính là người cương quyết trấn thủ Nha Trang và là một người trong đám tiên phong ra tận đèo rù rì nghênh đón bọn Vẹm vào! Con đáng chết!”
Rồi anh tiếp tục kể, như thể Ba tôi là cái hồ chứa để anh trút xuống nổi lòng, mong cầu vơi nhẹ bớt những ray rứt và hối hận:
- “Ban đầu con vào làm việc cho Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Khánh Hòa. Nhưng chỉ 3 tháng sau thôi, thưa Bác, là con đã thấy được bộ mặt thật của bọn Cộng Sản, và con quay qua góp ý, rồi phê bình, rồi chống đối!

Kết cuộc chúng xiềng con vào chuồng cọp (phòng giam nhỏ xíu, chỉ đủ giam giữ 1 phạm nhân). Con chỉ được phép cho ra khỏi chuồng cọp vào những giờ giấc thẩm vấn mà thôi. Thay vì phải “phản tỉnh” thì con lại giận dữ chưởi bới tiếp tục nên lại bị cùm, rồi bị kéo lê kéo lết hết nhà tù biệt giam này đến nhà tù biệt giam khác, không một phút nghỉ ngơi. Cuối cùng, hai cái giò bị xiềng của con đã lúc nhúc giòi bọ, cơ hồ sắp phải cắt bỏ. Sau đó, con còn bị một cú tai biến mạch máu não tưởng đã đi theo ông bà, vì vậy chúng nó mới quyết định thả con ra vì con đã là người tàn phế rồi .

Trong lần gặp gỡ này, Ba tôi chỉ lắng tai nghe anh Vĩnh Thọ nói chứ không hề phê phán hay góp ý, vì ông còn rất nghi ngại dè dặt. Ai là thù, ai là bạn của ta, thật khó mà có thể quyết đoán vội vàng trong không gian và thời gian này!
- “Bác ạ, con cho rằng muốn chống Cộng Sản thì chúng ta phải ở ngay trong lòng Cộng Sản, vì Cộng Sản nhìn từ xa xa thì rực rỡ như một con kỳ lân, dũng mãnh như một con sư tử. Hay nói cho có vần có điệu, chế độ Cộng Sản nhìn xa thì đẹp đẽ, nhìn gần thì chỉ là con chó ghẻ!”

Tôi nhớ mãi lời ví von cay đắng này của anh Vĩnh Thọ. Quả thật, anh Thọ đã là người hoàn toàn tàn phế khi được thả về! Áp huyết của anh cao đến đổi chúng tôi ai nấy đều lo sợ anh có thể ra đi bất cứ phút giây nào, và cơ thể anh suy nhược gần như toàn diện .
Anh sống nương tựa người em trai còn độc thân ở một ngôi nhà nhỏ trên con đường Bắc Hải, gần Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa ngày xưa.
Mẹ tôi nghe ai bày vẻ thức ăn hay món uống gì có thể giúp hạ áp huyết thì bà đều chính tay làm lấy rồi bắt chúng tôi đem đến cho anh, ước mong anh có thể kéo dài mạng sống. Nhưng rồi anh cũng phải ra đi!

Tôi nhận được tin anh Vĩnh Thọ qua đời khi tôi đã định cư ở Canada. Giây phút nghe tin, tôi đứng lặng yên ở khung cửa sổ nhìn lên bầu trời xanh biếc đang trôi nhanh những đám mây trắng ngần như tuyết trắng,cầu nguyện cho linh hồn anh được an nghỉ trên đó, không còn phải trăn trở chống chỏi khổ sở với những ước mơ và lựa chọn quá hoang đường của anh nữa!

Dù lựa chọn của anh đã quá sai lầm và hoang đường, nhưng tôi thật sự ngưỡng mộ giấc mơ của anh cùng với ý chí cương quyết, dứt khoát không phản bội lại những điều tốt đẹp mà anh đã ôm ấp. So với biết bao nhiêu người mà lựa chọn chỉ là “làm kẻ đứng bên lề”, đất nước thịnh hay suy, mất hay còn, dân tình no ấm hay lầm than, đó chẳng phải là chuyện của họ mà chỉ là chuyện-phải-lo của một thiểu số người cầm quyền mà thôi, thì sự chọn lựa với một thái độ nhập cuộc thật tích cực và kiên cường của người phi công này xứng đáng được sự tha thứ cũng như ngưỡng mộ của tất cả chúng ta.

Tôi ước ao bài hồi ký này sẽ đến được tận tay hai vị học huynh Phan và Trần để có thể khơi dậy lại được trong trái tim họ một chút gì tốt đẹp còn rơi rớt lại của ngày xưa: Một chút lòng yêu nước thương dân. Một chút lý tưởng tranh đấu để thực thi công bằng xã hội, động cơ khởi đầu sự lựa chọn của họ. Xin cám ơn tất cả những “Chọn Lựa” đầy vị tha và tốt đẹp, những “Chọn Lựa” đã vun đắp và tô điểm hoàn hảo lịch sử dân tộc tôi.

Cao Đồng Phước
Calgary, Canada
Tam the Bai _ Thanh Thuy (Huynh Anh)

http://www.youtube.com/watch?v=KvICWw2-3Uc

Thứ Ba, 25 tháng 8, 2009

LÊ THỊ CÔNG NHÂN, BẤT KHUẤT


Đêm Thanh Hóa tù co lạnh lẽo
Nhớ quê nhà quạnh quẽ mẹ cha
Anh em tám bốn lạc loài
Nước non nghiệt ngã miệt mài đấu tranh


Thân cô nhỏ nhưng tấm lòng biển cả
Thịt da mềm nhưng sắt thép mềm hơn
Một lòng vì nước vì non
Không màn tra tấn không sờn trại giam

Lũ côn đồ hung tàn quái ác
Chỉ mong chờ xé xác cô ra
Đòn thù gió táp mưa sa
Vùi hoa dập liễu cành tơ cũng tàn

"Đừng mong tôi đầu hàng bọn kiếp
Cũng đừng hòng thỏa hiệp ở tôi
Tự do từ thuở nằm nôi
Nhân quyền Thượng Đế cho người mới sinh"

Cớ sao chúng sự sinh sinh sự
Tra giết người quỷ dữ còn kinh
Toàn dân khốn khổ điêu linh
Oan khiên dậy đất,oan linh ngập trời

Mắt cô sáng hơn sáng ngời ánh thép
Mặt cô tròn đẹp hơn cả vầng trăng
Công dung ngôn hạnh vẹn mười
Luật sư tài đức hộ người oan khiên

Thân bé nhỏ nhưng uy nghiêm đỉnh đạc
Bóng bao trùm ngoài Bắc trong Nam
Vành móng ngựa đứng hiên ngang
Quan tòa vỡ mật công an cúi đầu

Tiếng cô nói vang rền bốn cõi
Như sóng thần bão nổi thất kinh
Ba Đình lăng cũng rung rinh
Cộng quân tán đỡm thần linh giật mình

Ngồi trong tù quang linh sáng chói
Thần lực cô đạp nát lâu đài
Bóng cô sừng sững nguy nga
Bùi thị Xuân đó,đây là tái sinh

Nay thui thủi một mình bóng tối
Chốn lao tù bụng đói nằm co
Nỗi lòng khoắc khoải tơ vò
Lo cho mẹ yếu qua đò thăm con

Mỗi bước đi lệ tràn khóe mắt
Mắt già mờ bước thấp bước cao
Còng lưng mõi gối non cao
Thăm con trại cấm tù lao đói dài

"Mẹ đừng lo thứ hai nhiệm sở
Cũng đừng màng lạnh khổ đói no
Sống tự tại,chết tự do
Nhân quyền dân chủ chỉ lo dân lành"

Xương có lạnh tro tàn thiên cổ
Khí tiết còn lưu ở sử xanh
Nhớ rằng Lê Thị Công Nhân
Anh hùng nước Việt lưu danh muôn đời

Mạc Chiến

Thứ Hai, 24 tháng 8, 2009

THƠ ĐINH HÙNG

Người đã trao hồn cho núi sông
Thuyền quyên vương mắc chí tang bồng
Chín lần gươm báu trao tay ngọc
Một mảnh nhung y điểm má hồng

Đinh Hùng
Kỷ niệm ngày Triệu Trưng Vương

Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2009

NGƯỜI THIẾU PHỤ TRONG MƯA PHÙN


Người Thiếu Phụ Trong Mưa Phùn Giữa Núi Rừng Việt Bắc

Viết để tưởng nhớ quý chiến hữu đã gục chết trong lao tù Cộng Sản, và cũng để tuyên dương những người vợ lính VNCH, đặc biệt là chị quả phụ của cố Đại úy CSQG Trần Thiên Thọ Hải. ....

Cuối năm 1977, tình hữu nghị anh em xã hội chủ nghĩa giữa Cộng Sản Ta và Cộng Sản Tàu đã trở nên tồi tệ. Đài phát thanh Hà Nội, cái loa tuyên truyền của Cộng Sản Ta đã không còn ra rả phát đi lời tuyên bố của tên Thủ Tướng Đồng “vẩu”. Trước kia, nào là “tình hữu nghị Việt-Trung muôn đời bất diệt” nào là “tình hữu nghị Việt-Trung như răng với môi, môi hở thì răng lạnh” .v.v..

Vì sau khi cưỡng chiếm được miền Nam, các tên lãnh đạo Cộng Sản Ta đã ngả theo Nga, mà quên đi cái ơn của Cộng Sản Tàu trong những năm chiến tranh “anh bộ đội cụ Hồ” đã được Cộng Sản Tàu trang bị cho từ chân lên đến đỉnh đầu, từ đôi dép râu làm bằng lốp xe đến cái nón cối đội trên đầu, thậm chí là cả cái bát ăn cơm, anh bộ đội chỉ có duy nhất “cụ Hồ” là của chính anh.

Để trừng trị thằng đàn em cứng đầu vong ơn bội nghĩa, Tàu Cộng liền cho tên Miên Cộng Polpốt quậy phá ở biên giới phía Nam. Nhưng tên Miên này không làm nên chuyện, nên Tàu Cộng đã dàn quân dọc biên giới phía Bắc để chuẩn bị cho Cộng Sản Ta bài học số một, và như vậy là răng đã cắn sứt môi.

Lo sợ khi Cộng Sản Tàu đánh xuống, anh em tù phía Quốc Gia đang bị giam giữ tại các tỉnh phía Bắc như Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ .v.v. sẽ tìm cách trốn sang biên giới phối hợp với lực lượng ly khai của Hoàng Văn Hoan đang được Tàu Cộng ủng hộ, nên gần cuối năm 1977 bọn Việt Cộng đã chuyển anh em tù xuống dần phía Nam đến các trại Vinh Quang hay Tân Lập thuộc tỉnh Vĩnh Phú hoặc các trại Hà Tây hay Nam Hà (Đầm Đùn, Ba Sao) gần Hà Nội.

Tình hình sức khỏe anh em khi còn ở các trại do quân đội Việt Cộng quản lý đã tồi tệ, thì nay càng tồi tệ hơn dưới sự hà khắc dã man của bọn Công An, mà anh em tù quen gọi là bọn “Chó Vàng”, tiêu chuẩn ăn uống thì bị cắt xén ăn bớt. Mỗi bữa ăn chỉ được một thìa cơm với hai khúc sắn tươi, hoặc gần chục lát sắn khô hay một chén sắn duôi (loại sắn được nạo thành sợi hay xắt thành cục phơi khô), vài muỗng canh đại dương (nước muối với vài cọng rau già), hoặc một vài miếng sắn được nấu với muối cho nhừ để làm canh. Họa hoằn, một đôi ba tháng vào các ngày Lễ Tết thì được một chén cơm trắng với hai ba miếng thịt lợn to bằng đốt ngón tay, hoặc một vài miếng thịt trâu từ một con trâu già đã không còn kéo cày nổi hay bị chết vì không chịu nổi cái lạnh mùa đông.
Với chế độ ăn uống như vậy mà phải làm việc khổ sai, dẫn đến tình trạng kiệt lực, người nào cũng chỉ còn da bọc xương. Mỗi buổi chiều hết giờ lao động, anh em tù cởi áo xuống ao tắm, trông như một bầy khỉ ốm đói.

Tình trạng bệnh tật và không có thuốc men thật là đáng sợ, bệnh kiết lỵ, phù thủng và thổ huyết rất phổ biến. Đã có một số anh em chết mà anh em tù quen gọi là “quay đầu về núi” vì hầu hết tù nhân chết đều được chôn trên các sườn đồi. Xin đơn cử một vài cái chết của vài anh mà tôi có dịp ở chung.Thiếu tá Hà Sỹ Phong, phó giám đốc đài phát thanh Tự Do, anh ở cùng đội với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh nên cho nghỉ ở nhà trực phòng, sau đó 2 ngày anh được mẹ ở miền Bắc lên thăm. Buổi tối anh cho tôi nửa chén cơm vắt và hai miếng thịt gà kho mặn, anh thì thầm tâm sự:

Tình trạng bệnh tật và không có thuốc men thật là đáng sợ, bệnh kiết lỵ, phù thủng và thổ huyết rất phổ biến. Đã có một số anh em chết mà anh em tù quen gọi là “quay đầu về núi” vì hầu hết tù nhân chết đều được chôn trên các sườn đồi. Xin đơn cử một vài cái chết của vài anh mà tôi có dịp ở chung.Thiếu tá Hà Sỹ Phong, phó giám đốc đài phát thanh Tự Do, anh ở cùng đội với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh nên cho nghỉ ở nhà trực phòng, sau đó 2 ngày anh được mẹ ở miền Bắc lên thăm. Buổi tối anh cho tôi nửa chén cơm vắt và hai miếng thịt gà kho mặn, anh thì thầm tâm sự:

- Năm 54 tôi di cư vào Nam chỉ có một mình, ông bà cụ luyến tiếc tài sản không chịu đi, bố tôi bị đi tẩy não (tù cải tạo) trong đợt cải cách ruộng đất và chết trong tù, bây giờ mẹ tôi đã ngoài 70 tuổi lại phải đi thăm con ở tù.

Đây là lần đầu gặp lại mẹ tôi sau hơn hai mươi năm xa cách.Nói rồi hai hàng nước mắt anh lăn dài trên má. Tôi lí nhí cám ơn anh về món quà anh đã cho tôi. Sau gần 3 năm tù, đây là lần đầu tiên tôi được thưởng thức một món ăn quá sang trọng như vậy. Tôi xé từng sớ thịt, rồi lại liếm mấy ngón tay, tận hưởng cái hạnh phúc to lớn ấy rồi thiếp dần vào giấc ngủ.

Sáng hôm sau khi ra khỏi phòng để điểm danh thì thiếu một người, tên thường trực thi đua (một tên tù được đưa lên phụ việc đóng mở cửa và kiểm soát anh em) đi vào thì phát hiện anh Phong đã mê man. Chúng tôi vội cõng anh lên trạm xá nhưng anh đã chết vài giờ sau đó.Ít ngày sau lại đến anh Trung Tá Lạc phòng 2 Bộ tư lệnh Quân Đoàn II. Một buổi chiều sau khi lao động về, anh Lạc ghé sang khu tôi ở, móc trong túi ra một cái bánh chưng đưa cho tôi và nói:

- Hai cháu nó mới ra thăm, cả hai đều được đi dậy học lại và là “giáo viên tiên tiến” nên được cho ra thăm “lăng Bác”. Nó tìm lên thăm mua cho ít quà, chú dùng cái bánh chia vui với tôi, mấy ngày nữa các cháu sẽ lại lên thăm tôi lần nữa.

Tôi đón cái bánh chưng to bằng cái bánh trung thu và lí nhí cám ơn anh rồi vội chia tay, vì sợ tụi cán bộ trông thấy sẽ ghép tôi quan hệ trái phép .v.v..Quả thật những lúc đói khát khó khăn thế này mới thấy cái tình dành cho nhau nó to lớn và sâu đậm. Nhưng rồi không may cho anh, hai hôm sau anh đã chết ngay tại hiện trường lao động không kịp gặp lại các con.

Giữa năm 78 vì đói khát suy dinh dưỡng, cộng thêm cơn sốt vàng da đã khiến tôi kiệt lực, thân thể chỉ còn trên 30kg. Tôi không còn bước đi được nữa, mà chỉ có thể bò được vài ba thước, tôi được đưa xuống trạm xá nằm trong “danh sách chờ”.

Tại đây đã có anh Tư, anh là người hạm trưởng đã sang Singapore rồi lại quay về, anh bị bệnh phù thủng lại thêm phần ân hận vì đã quay về để rồi bị đi tù mút chỉ, nên chỉ ít ngày thì anh chết. Rồi đến Trung Tá Mai Xuân Hậu, Tỉnh trưởng Kontum, Thiếu Tá Đặng Bình Minh lái trực thăng cho Tổng Thống Thiệu, Trung Tá Lý. Dường như chẳng còn ai quan tâm đến cái chết, chả thế mà vẫn còn nói đùa: “Đ.M. mày qua mặt tao mà đíu bóp còi”. Cũng thời gian này, có một bài hát đã được anh sáng tác tôi vẫn còn nhớ được ít câu:

“Rồi một ngày mai không có anh, em không còn phải nhớ phải mong
- Rồi một ngày mai thân xác anh quay đầu về núi
- Cô đơn ngồi khóc một mình
- Không một lần kịp vuốt mắt anh
- Ôi mây lang thang về phía trời xa vời, nhìn trông theo cánh chim từng đàn, để mình ta với bao ngày tháng xanh rêu, bụi thời gian lấp kín hồn mình, đớn đau trong lòng mà nhớ về nơi xa,ôi ngày về còn dài bao lâu
- Rồi một ngày mai anh chết đi, em không còn phải khóc phải thương
- Rồi một ngày mai thân xác anh đi vào lòng đất, cô đơn phủ kín đời mình.
- Không một lần kịp nói tiếng yêu.”

Nhưng rồi may mắn hơn, số tôi chưa tới, nên căn bệnh sốt vàng da không biết có phải nhờ ba cái lá ổi, lá xoan hay không, mà tự nhiên biến mất. Và may mắn thay, nhờ mảnh giấy tôi gửi lén về qua một chị ra thăm chồng, tuy bị tụi công an phát giác, nhưng chị cũng đã nhớ cái địa chỉ ở Biên Hòa, nên chị đã đi tìm báo cho gia đình tôi biết.

Nhờ vậy, cuối năm 79 mẹ tôi và vợ con tôi ra thăm, tên Vinh cán bộ giáo dục của trại trước khi tôi ra gặp đã chỉ cho tôi gặp 5 phút vì tôi đã gửi lén thư, nhưng tên công an dắt tôi ra đã cho tôi gặp gần một giờ. Gặp lại mẹ và vợ con sau hơn 4 năm chỉ biết khóc. Chỉ nói được vài câu thì đã hết giờ, tôi đứng dậy chào từ biệt, lòng buồn rã rượi, rồi chống gậy lom khom lết về trại, một tên tù hình sự được chỉ định giúp tôi đẩy cái xe cải tiến chở đồ thăm nuôi vào trại.

Nhờ chuyến ra thăm này mà tôi dần dần hồi phục, lúc này mỗi tuần đều có một vài anh em “quay đầu về núi”. Cái đồi sắn ở phía đội 12 sau hơn hai năm đã có gần 300 anh em tù chính trị được chôn ở đó.Gần tết năm 79 tôi chuyển sang đội 17 lâm sản, chuyên đi lấy củi để sử dụng cho bếp trại, thời gian này do áp lực của quốc tế, nên chúng buộc phải cho gia đình đi thăm nuôi, nên sức khỏe của đa số anh em đã dần dần hồi phục. Một số anh em “con bà phước” cũng được anh em đùm bọc, nên cái bóng thần chết đã bị đẩy lùi.
Hàng đêm tại các phòng, anh em lại tụ tập quanh ngọn đèn dầu với ấm trà cặm tăm, loại trà thật đặc được pha hoàn toàn bằng búp trà “hai tôm một tép” sao sấy cẩn thận, do anh em đội trà lén mang về.

Các tay văn nghệ lại bắt đầu tổ chức ca hát nhạc vàng hàng đêm, khiến tụi cán bộ trại điên đầu, chúng bắt đầu cảm thấy hoang mang vì thấy tù càng bị nhốt lâu lại càng ung dung tự tại, không còn hoang mang lo sợ, lại thêm đám cán bộ nhí bắt đầu bị anh em tù thu phục.

Chúng bắt đầu xin anh em chép và dạy cho chúng hát nhạc vàng, có tên còn xin đồ ăn và thuốc hút. Những buổi lên lớp do tên Trung tá Thùy nói chuyện đã bị anh em phản kháng bằng cách vỗ tay và cười, đã làm cho hắn ngượng ngùng. Chẳng hạn như lúc hắn khoác lác về tên Phạm Tuân đã bay Mig 21 lên, rồi tắt máy phục kích ở trong mây, đợi B52 đến rồi nổ máy tiêu diệt, hay làm phụ lái cho tàu vũ trụ bay lên không gian nghiên cứu bèo hoa dâu để nuôi lợn .v.v.

Rồi sang đến cuối năm 80 thì cũng chính tin đồn anh em tù sẽ đi Mỹ, phát ra từ trong đám cán bộ, dân chúng quanh vùng quý tù miền Nam và ghét cán bộ ra mặt. Anh em đã san xẻ thuốc men cho dân ốm đau trong vùng, khi đi lao động ngoài Bến Ngọc. Anh em thường gọi đây là công tác dân sự vụ.

Một buổi tối cuối năm, sau khi đã điểm danh vào phòng, anh em đang tụ tập đàn hát như thường lệ, lúc kẻng báo tắt đèn đến giờ ngủ thì tên cán bộ trực tại trại đến cửa phòng nói vọng vào yêu cầu Phan Thanh đội trưởng lâm sản cử 4 người đi “lao động đột xuất”. Thanh, Diệp, Tân và tôi mặc quần áo cho thật ấm và cũng không quên mang theo tấm nylon đề phòng mưa, vì mùa đông miền Bắc thật lạnh, lại thường có mưa phùn.
Chúng tôi được lệnh xuống chỗ đội 12 lấy cuốc xẻng và thùng xách nước bỏ lên xe cải tiến đi về phía khu nhà tiếp tân. Tên cán bộ đi theo đưa cho tôi cái đèn bão leo lét. Ngang khu nhà tiếp tân thì đã thấy một thiếu phụ trong bộ đồ tang trắng đang đứng đợi.

Dường như đã được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi tìm mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra đại úy Hải chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút chúng tôi đã tìm được ngôi mộ của anh với tấm bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học trò ghi lờ mờ, còn nắm đất thì chỉ cao hơn mặt đất chừng một tấc. Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam.
Việc đầu tiên là tìm một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và lấy ánh sáng, chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ còn rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương.

Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, vì trời đã lâm râm mưa phùn. Chúng tôi dìu chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào. Chỉ không đầy 20 phút chúng tôi đã đụng lớp ván đã mục, vì khi tù nhân chết thì chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù hình sự khi đi chôn thì chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa.

Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đã rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đã lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa làm chị vừa tâm sự:

- Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại thì họ nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau thì em được tin anh Hải đã chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết.

Như vậy là họ đã dấu nhẹm không báo cho gia đình, mới đây một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt, sau mấy lần làm đơn cuối cùng họ đã phải cho. Nhưng khi đến đây thì họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà tiếp qua đêm với lý do là ô uế.

Sau gần một giờ, thấy có thể đã không còn sót cái xương nào, chúng tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nhìn thấy.

Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lý nhí vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc còn lại. Nhìn người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo. Bỗng sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong kẽ răng:- Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả giá cho hành động này!
Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về phòng. Tên thường trực thi đua đã đứng đợi sẵn để mở cửa.

Đã quá nửa đêm, cái lạnh đã thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh của vùng rừng núi Việt Bắc, như người vợ, người mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả một dân tộc đi trong đêm tối bão bùng.

BÀI TRÍCH TU VĂN TUYỂN
Ngày 21 tháng 8 năm 2009

Thứ Tư, 19 tháng 8, 2009

NHỚ VỀ XỨ HUẾ





Ai về xứ Huế mến yêu
Cho tôi gửi nhớ về Chiều Đông Ba
Dập dìu áo lượn đôi tà
Chợ vui nhộn nhịp người qua vội vàng
Tiếng chuông Thiên Mụ ngân vang
Trên cao đỉnh Ngự từng hàng thong reo
Dòng Hương khua nhẹ má chèo
Con thuyền lướt sóng gửi theo tiếng hò
Tỉnh Tâm sen trắng mặt hồ
Chợt nghe ngàn tiếng nam mô vọng về
Tràng Tiền nối nhịp tình quê
Ai qua vành nón nghiêng che nụ cười
Trường Đồng Khánh nắng vàng rơi
Nhớ tà áo tím bồi hồi ngày xưa
Nhặt giùm tôi tiếng guốc khua
Xâu thành chuỗi nhớ bao mùa áo bay
Về Thôn Vĩ Dạ đêm gầy
Trăng nghiêng vườn mộng trúc thay áo vàng
Heo mây chờ bong Thu sang
Lá thay tôi thả đôi hàng thơ thương

Trầm Vân